Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên đất nước ta một lần nữa. Với ý chí "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ với niềm tin tất thắng. Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, quân dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Để cứu vãn tình thế thất bại, bước vào Thu - Đông 1953, thực dân Pháp với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Na-va, tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh ở Việt Nam nhằm giành thắng lợi có tính quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đất nước ta trong những ngày đầu độc lập gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài” - thực dân Pháp dã tâm quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12 năm 1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự do, quyết chiến, quyết thắng, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhất tề đứng lên thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, từng bước đánh bại các chiến lược quân sự của bè lũ thực dân, giành được những thắng lợi quan trọng, nổi bật là trên các mặt trận Việt Bắc 1947, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác nhận định tình hình chiến sự Đông-Xuân đã thống nhất, sau nhiều chiến dịch tổ chức thắng lợi, ta đang ở thế chủ động chiến lược, còn địch ở thế bị động. Từ đó, đi đến quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược - đòn quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đánh giá tầm quan trọng của chiến dịch này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn bạc, phân tích rất kỹ để tìm ra phương án thích hợp huy động sức mạnh của toàn quốc chi viện cho chiến dịch đảm bảo chắc thắng. Một cuộc vận động nhân dân chi viện Điện Biên Phủ đã được triển khai rầm rộ, với quy mô lớn chưa từng có.
Chiến dịch Điện Biên Phủ với 3 đợt tấn công:
-Đợi 1: từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 17 tháng 3 quân ta đã tiêu diệt phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và đồi Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngụ trên hướng Bắc và Đông Bắc, của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Mở toang cánh cửa cho quân ta tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội Thái tan rã, một số lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu hết các máy bay chiến đấu tong vùng lòng chảo đều bị ta phá hủy.
-Đợt 2 của chiến dịch: diễn ra từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 1954 quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu Trung tâm, ta tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu đoàn và 9 đại đội ( chiếm 1⁄2 tổng số quân địch ở ở phân khu Bắc và phân khu Trung tâm) khống chế được phần lớn các điểm cao phía Đông, phát triển trận địa sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
-Đợt 3: Từ 01 tháng 5 đến ngày 07 tháng 5 năm 1954. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại dãy đổi phía Đông và diệt một số cứ điểm phía tây và mở đợt tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biển Phủ, 17 giờ ngày 6 tháng 5 năm 1954, pháo binh và hỏa tiễn của ta bắn dữ dội vào các cứ điểm của địch, mở đường cho bộ bỉnh tiến công. Tại khu A1, sau khi cho nổ 1 tấn bộc phá phá hủy hầm ngầm địch, bộ đội ta chia thành nhiều mỗi, theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi, 17 giờ 30 ngày 7 tháng 5 năm 1954, Đại đội 360 thuộc trung đoàn 209 Đại đoàn 312 do đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy đánh chiếm sở chỉ huy, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống, ngay đêm hôm đó quân ta tiếp tực tiến công phân khu Nam đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 22 giờ toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đã kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trước tiên, phải khẳng định sự lãnh đạo tài tình, đầy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp, khơi dậy, phát huy cao độ lòng yêu nước, thương nòi của nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho nhân dân ta thấy rõ lợi ích sống còn của dân tộc mà đoàn kết chiến đấu chống thực dân xâm lược, giành độc lập tự do, đã tạo nên sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh nhân dân và chính nghĩa trong chiến dịch Điện Biên Phủ.